Thứ Tư, 26 tháng 12, 2012

Châm clo Capital control, ADVANCE 480


Công ty Quang Minh chuyên cung cấp các thiết bị cấp nước
Bộ châm clo, Thiết bị khử trùng nước, thiết bị định lượng clo
Máy châm clo của hãng Enchlor - Mỹ, SUPERIOR – USA, Capital control ADVANCE 480
capiltal control  ADVANCE 480
Máy bao gồm: thiết bị định lượng, thiết bị điều chỉnh chân không, Ejejector và dây dẫn
Loại: 75g, 0.5Kg, 1 kg, 2 kg, 5k, 10kg…
:bình chứa clo, thiết bị phát hiện rò rỉ. Hệ thống máy châm khí clo chuyển đổi tự động,
Chlorinator dạng treo tường, gắn trên bình đứng, bao gồm các MODEL : ADVANCE 480, CL – 26, CL – 56, NXT3000….
Chứng nhận xuất xứ ( CO), chứng nhận chất lượng (CQ) do chính hãng cung cấp
Hàng mới 100%.
Bảo hành 12 tháng..
Mọi chi tiết xin liên hệ
Nguyễn Quang Minh
Hotline: 0983 265 215
Email: quangminhvnx@gmail.com

Máy châm Clo CAPITAL CONTROLS/USA



Máy châm Clo CAPITAL CONTROLS/USA
Sản xuất: Severn Trent Services / USA
Model : ADVANCE 480
C/s : 0 - 0.5kg/h
Loại gắn treo tường, hâm nhiệt. Gồm có :
- Bộ điều tiết chân không có van ngăn cách 
- Ejector, bộ treo tường
- Bộ góp khí có van ngăn cách , ống dẫn
 hơi Clo,
ống dẫn khí Clo và ph tùng theo máy.
Liên hệ :
Nguyễn Quang Minh
ĐT : 0983 265 215
Email: quangminhvnx@gmail.com

Bộ phát hiện khí rò rỉ clo ADVANCE


Thiết bị phát hiện rò rỉ clo


Bộ phát hiện khí rò rỉ clo ADVANCETM serie 1610B, 1620B cho phép phát hiện liên tục khí clo, (hoặc các khí khác như sulphua hoặc Amoniac nếu sử dụng đầu dò khác nhau) trong môi trường làm việc. Bộ phát hiện khí rò rỉ này sử dụng lí tưởng cho việc bảo vệ người, tài sản ở những nơi có khả năng xuất hiện khí rò rỉ ở mức dưới ngưỡng yêu cầu của cơ quan vệ sinh của Mỹ OSHA. Đầu rò cho phép phát hiện được ngay khi khí bị rò rỉ, và được thiết kế để tránh báo động giả do bị nhiễu khí và môi trường làm việc.
Serie 1610B thiết kế để bảo vệ nhiễu sóng radio và sóng điện từ(RFI/RMI) có trong các nhà máy công nghiệp.
  
       Serie 1610B  
  • Đo được 1 điểm
  • Cảm biến không cần phải bảo dưỡng và có tuổi thọ cao
  • Hai đầu ra cảnh báo dùng cho cảnh báo từ xa và thiết bị điều khiển khác
  • Cảnh báo bằng còi và đèn
  • Phản ứng nhanh với sự có mặt của khí rò rỉ
  • Vỏ bảo vệ NEMA 4X
  • Nguồn nuôi để vận hành liên tục (tùy chọn)
  • Tín hiệu kiểm soát từ xa (tùy chọn)
  • Bảo vệ RFI/EMI



       Serie 1620B 
  • Đo được 8 điểm
  • Quét tự động/ hoặc bằng tay
  • Cảm biến không cần phải bảo dưỡng và có tuổi thọ cao
  • Bảng điều chỉnh cảnh báo bằng âm thanh
  • Hai đầu ra cảnh báo dùng cho cảnh báo từ xa và thiết bị điều khiển khác
  • Vỏ bảo vệ NEMA 4X
  • Nguồn nuôi để vận hành liên tục (tùy chọn)
  • Tín hiệu kiểm soát từ xa (tùy chọn)
  • Bảo vệ RFI/EMI
  • http://thietbicapthoatnuoc.com/binh-clo-van-dau-binh-sherwood.html

Thứ Ba, 25 tháng 12, 2012

Van Cổng Sluice ROwat RSA

ROwat RSA là một kết thúc hoặc cửa cống đầu vào cho sử dụng trong nước và nhà máy xử lý nước thải, công nghiệp chế biến, cũng như trong các công trình xây dựng bê tông đúc sẵn, công trình công cộng. Một loạt các phụ kiện có sẵn để tăng hiệu quả của nó
 Các tính năng:
- Bảo trì miễn phí
- Áp lực nước tối đa cho phép 5 mét
- Kích thước khoảng từ 150 mm - 1500 mm đường kính
- Áp lực nước ngồi và lật đổ
- Không tăng trục chính
- Sản xuất thép không gỉ 316/HDPE
- Sẵn sàng để treo tường (tròn và vuông mở)
 

Van Xả trọng lực Van Flap - ROwat RLK

Owat RLK là một van nắp để gắn vào một bức tường thẳng. Nó cũng có thể được kết nối với đường ống được làm từ các vật liệu khác nhau như bê tông hoặc nhựa PVC
 Các tính năng:
- Bảo trì miễn phí
- Mở kháng thấp
Kích thước dao động từ φ100mm φ600mm
- Thay thế EPDM con dấu
- Có thể được cung cấp cho treo tường hoặc cống tròn.
- Phụ thu spigot có sẵn để kết nối PVC và bê tông
 
 
ROwat RLK> 600mm
Đối với các đơn vị như vậy, các van nắp được tăng cường phù hợp để phù hợp với yêu cầu của dự án.
 Các tính năng:
- Bảo trì miễn phí
- Mở kháng thấp
- Kích ứng đến φ 1800mm
 - Thay thế EPDM con dấu
 
 

Thứ Năm, 22 tháng 11, 2012

van lật

ROwat RLK> 600mm
Đối với các đơn vị như vậy, các van nắp được tăng cường phù hợp để phù hợp với yêu cầu của dự án.
 Các tính năng:
- Bảo trì miễn phí
- Mở kháng thấp
- Kích ứng đến φ 1800mm
 - Thay thế EPDM con dấu
 
 

Van lật, van xả trọng lực

ROwat RLK - Xả trọng lực Van Flap
ROwat RLK là một van nắp để gắn vào một bức tường thẳng. Nó cũng có thể được kết nối với đường ống được làm từ các vật liệu khác nhau như bê tông hoặc nhựa PVC
 Các tính năng:
- Bảo trì miễn phí
- Mở kháng thấp
Kích thước dao động từ φ100mm φ600mm
- Thay thế EPDM con dấu
- Có thể được cung cấp cho treo tường hoặc cống tròn.
- Phụ thu spigot có sẵn để kết nối PVC và bê tông
 

Thứ Hai, 12 tháng 11, 2012

Khai mạc Triển lãm VIETWATER 2012


Sáng nay tại Hà Nội, Triển lãm VIETWATER 2012 đã chính thức khai mạc tại Trung tâm Triển lãm Giảng Võ, đây là triển lãm chuyên ngành về ngành công nghiệp nước, công nghệ xử lý nước thải và công nghệ lọc được tổ chức lần thứ 4 tại Việt Nam.
Với gần 200 gian hàng, triển lãm năm nay đã thu hút sự tham gia của nhiều doanh nghiệp và chuyên gia hàng đầu trong lĩnh vực cấp thoát nước, xử lý nước thải, đồng thời giới thiệu các sản phẩm, công nghệ tiên tiến nhất trên thế giới của các quốc gia như Nhật Bản, Pháp, Malaysia, Đài Loan, Singapore …về lĩnh vực này.
Phát biểu tại Triển lãm, Thứ trưởng Bộ Xây dựng, Cao Lại Quang nhấn mạnh: Triển lãm là cơ hội tốt cho các Công ty, đơn vị và chuyên gia trong và ngoài nước giao lưu, trao đổi kinh nghiệm và cập nhật những thông tin, công nghệ mới nhất về ngành nước, tạo cơ hội cho các doanh nghiệp xây dựng mối quan hệ hợp tác, đầu tư kinh doanh, đồng thời góp phần hình thành những ý tưởng, những nghiên cứu thiết kế, đầu tư và sản xuất kinh doanh hiệu quả hơn tại Việt Nam.
Trong khuôn khổ triển lãm, hội thảo chuyên ngành nước cũng sẽ được tổ chức với chủ đề “Hướng tới quản lý chất lượng, cung cấp nước an toàn và môi trường bền vững”.
Được biết Vietwater 2012 là một phần của chuỗi sự kiện triển lãm về công nghiệp nước và nước thải ở Châu Á, được tổ chức lần lượt tại Việt Nam, Malaysia, Indonesia, Thái Lan và Philippines.
Triển lãm sẽ mở cửa đến hết ngày 8.11.2012.
 
ĐỖ ĐÌNH DŨNG -  http://vlr.vn

250 nhà trưng bày tham gia triển lãm công nghệ ngành nước


Từ 6 đến 8/11, triển lãm về ngành nước, công nghệ xử lý nước thải và công nghệ lọc (Vietwater 2012) diễn ra tại Trung tâm Hội chợ & Triển lãm Giảng Võ. Đây là lần thứ 4 Vietwater được diễn ra với sự bảo trợ của Hội Cấp thoát nước Việt Nam (VWSA), Cộng đồng các công ty Nước khu vực Đông Nam Á (SEAWUN) và Bộ Xây dựng.

Triển lãm thu hút hơn 250 doanh nghiệp của Việt Nam và hơn 30 quốc gia trên thế giới. Trong ba ngày, các doanh nghiệp sẽ giới thiệu công nghệ mới trong ngành công nghiệp nước và xử lý nước thải, phục vụ nhu cầu đổi mới công nghệ của các tổ chức, doanh nghiệp. Song song với triển lãm Vietwater 2012, khách tham quan có thể dự hội thảo với chủ đề “Hướng đến việc quản lý chất lượng nguồn nước an toàn, hiệu quả và phát triển môi trường bền vững”.

Hương Hiền- baotintuc

Triển lãm quốc tế hàng đầu về ngành nước Vietwater 2012


(ĐCSVN) – Ngày 6/11, tại Hà Nội đã chính thức khai mạc triển lãm quốc tế hàng đầu về ngành nước Vietwater 2012 do Hội Cấp thoát nước Việt Nam bảo trợ, cùng sự hỗ trợ từ Bộ Xây dựng và Mạng lưới các công ty nước Đông Nam Á (Seawun).
Tham dự Vietwater năm nay có khoảng  250 đơn vị trưng bày sản phẩm đến từ 30 quốc gia khác nhau, trong đó có những quốc gia hàng đầu như Nhật Bản, Singapore, Pháp, Trung Quốc, Đan Mạch…cùng với đó là hàng nghìn chuyên gia quốc tế trong lĩnh vực cấp thoát nước, công nghệ lọc và xử lý nước thải.

 
 Triển lãm quốc tế Vietwater 2012. Ảnh: VT

  
Theo ban tổ chức, Vietwater 2012 không chỉ giúp các doanh nghiệp có thêm cơ hội phát triển kinh doanh cũng như chia sẻ những kinh nghiệm, kỹ thuật trong ngành nước mà còn là nơi để các chuyên gia trong ngành và những nhà hoạch định chính sách thảo luận, đưa ra các giải pháp cho vấn đề bảo vệ nguồn nước. 

Song song với triển lãm, tại Vietwater 2012 còn diễn ra các hội thảo với chủ đề “Hướng đến việc quản lý chất lượng nguồn nước an toàn, hiệu quả và phát triển môi trường bền vững” và hội thảo chuyên đề với hơn 20 bài phát biểu của các chuyên gia quốc tế về công nghệ mới nhất và sự phát triển trong ngành.

Triển lãm diễn ra tại Hà Nội từ ngày 6- 8/11/2012.

Triển lãm quốc tế về bảo vệ môi trường, cấp thoát nước và xử lý nước


Đứng trước những thách thc ngày càng lớn về xử lý ô nhiễm môi trường và nguồn nước tại các khu đô thị và khu công nghiệp ngày càng trở thành cấp thiết đối vói các nước trong khu vực châu Á, trong đó có Việt Nam.
Để giải quyết tình trạng này, trước hết cần có những công nghệ thiết bị tiên tiến để giảm chi phí đầu vào và tiết kiệm năng lượng. Điều này đòi hỏi phải thường xuyên nắm bắt thông tin, đặc biệt là thông qua việc tham dự các hoạt động của triển lãm chuyên ngành môi trường. Do đó, Tập đoàn Triển lãm quốc tế Munich và Công ty Triển lãm quốc tế ZM Thượng Hải phối hp vi Hội Khoa học Môi trường và Xã hội sẽ tổ chức Triển lãm "IE Expo - Triển lãm quốc tế về Bảo vệ môi trường, Cấp thoát nước và Xử lý nước" từ ngày 7 -9/3/2012, tại TP. Thượng Hải, Trung Quốc, vói sự tham gia của nhiều công ty quốc tế hàng đầu trong lĩnh vực môi trường như: Siemens, Scheiner, Norit, Bayer, GEA, Schaeíer, Gardner Denver... Ngoài ra, Triển lãm còn có sự góp mặt của các chuyên gia môi trường uy tín báo cáo tại các cuộc thảo luận và Hội nghị chuyên đề về lĩnh vực xử lý nước thải - rác thải - môi trường công cộng. Các công nghệ và thiết bị máy móc sẽ gii thiệu tại Triển lãm bao gồm:
    Nước và nước thải: Công nghệ và thiết bị khai thác và xử lý nước thải
Xử lý và tái chế rác thải: Kỹ thuật xử lý và tái sử dụng rác thải
Lọc ống khói và hệ thống khí thải: Kỹ thuật xử lý bụi và khí gas độc
Kiểm soát rung động và tiếng ồn: Sản phẩm và vật liệu chống ồn
Nguồn năng lượng mi: Khai thác và sử dụng các nguồn năng lượng từ rác thải
Xử lý ô nhiễm tại các bãi rác thải: Theo dõi, kiểm soát và kỹ thuật xử lý
Vệ sinh công cộng: Dịch vụ vệ sinh đường phố
Phương pháp đo, kiểm tra và công nghệ phòng thí nghiệm
Dịch vụ: Xử lý rác thải, nước thải, tư vấn quản lý môi trường
Giáo dục và nghiên cứu: Hiệp hội và Viện nghiên cứu, An phẩm thương mại
Đây là cơ hội tốt để các Doanh nghiệp môi trường và các đơn vị nghiên cứu của Việt Nam có thêm nhiều cơ hội tiếp cận những công nghệ, thiết bị mi trong công nghiệp, góp phần bảo vệ môi trường và phát triển bền vững ở nước ta.
Nguyễn Trung Chính - Tập đoàn Triển lãm quốc tế Munich tại Việt Nam

Thứ Tư, 24 tháng 10, 2012

Nước ngầm ngoại thành Hà Nội ô nhiễm nặng


Bất chấp những lời cảnh báo từ phía các nhà khoa học và cơ quan truyền thông tình trạng ô nhiễm của các nguồn nước ngầm ở Hà Nội vẫn không được cải thiện. 
Khu vực khoan giếng và sử dụng nước thường chung nhau như thế này khiến nguồn nước ngầm bị nhiễm bẩn (chụp tại khu nhà trọ tại quận Cầu Giấy, Hà Nội). Ảnh: HNM.
Trung tâm Nước sinh hoạt và Vệ sinh môi trường (Sở NN&PTNT Hà Nội) đã lấy 1.640 mẫu nước từ các giếng khoan hộ gia đình, trường mầm non, trạm y tế và 187 trạm cấp nước tập trung tại 420 xã, thị trấn khu vực ngoại thành.
Qua phân tích, kết hợp với các tài liệu quan trắc cho thấy nguồn nước ngầm bị nhiễm bẩn và đang lan rộng ở nhiều nơi. Tại xã Chàng Sơn, huyện Thạch Thất, Trung tâm Nước sinh hoạt và Vệ sinh môi trường lấy 123 mẫu nước ngầm để phân tích, kết quả có 86 mẫu bị nhiễm bẩn, trong đó 4 mẫu có màu lạ, 4 mẫu có độ đục cao gấp 5 lần quy chuẩn cho phép, 28 mẫu có hàm lượng amoni cao gấp 8,33 lần cho phép, 44 mẫu có chỉ số coliforms, cao gấp 2,68 lần cho phép, 3 mẫu có chỉ số ecoli cao gấp 1,3 lần cho phép.
Nhưng kết quả phân tích năm 2012, nhiều chỉ số ô nhiễm đã vượt 7-8 lần như amoni và một số hàm lượng kim loại nặng. Tương tự, tại huyện Phú Xuyên, trung tâm đã lấy 61 mẫu tại 3 xã có tới 35 mẫu bị nhiễm bẩn, trong đó có 25 mẫu có hàm lượng amoni cao gấp 8,3 lần quy chuẩn cho phép.
Mới đây, hàng trăm hộ dân thôn Phú Mỹ, xã Mỹ Đình, huyện Từ Liêm phát hiện ra nguồn nước sinh hoạt sử dụng trong nhiều năm nay bị nhiễm chất thạch tín (asen) vượt gấp 43 lần mức cho phép...
Theo số liệu nghiên cứu của Tổng cục Thủy lợi (Bộ NN&PTNT) về phân bố asen trong đất và nước tại Hà Nội, khoảng 1/4 số hộ gia đình sử dụng trực tiếp nước ngầm không xử lý ở khu vực ngoại thành bị ô nhiễm nặng, trong đó nước có chứa asen, tập trung tại các huyện Thanh Trì, Gia Lâm.
Một kết quả quan trắc khác của Trung tâm Quan trắc và dự báo tài nguyên nước (Bộ TN&MT) cũng khẳng định, mực nước ngầm tại Hà Nội đang suy giảm mạnh, chất lượng nước ở nhiều nơi không đạt quy chuẩn. Nguồn nước ngầm bị ô nhiễm nặng nhất là vùng gần lưu vực sông Nhuệ, sông Đáy, cụm công nghiệp, làng nghề và vùng Phú Xuyên, Ứng Hòa, Thanh Oai, Quốc Oai, Thạch Thất, Hoài Đức, Thanh Trì, Từ Liêm...
Theo PGS - TS Trần Hồng Côn, Chủ nhiệm bộ môn Công nghệ hóa học (Khoa hóa, Trường Đại học Khoa học tự nhiên thuộc Đại học quốc gia Hà Nội), nguồn nước ngầm trên địa bàn thành phố đang bị nhiễm asen với mức độ không đồng đều, có nơi nhiễm nặng, có nơi ít hơn mức cho phép.
Nhiều ý kiến cho rằng, thực trạng quản lý khai thác, sử dụng nguồn nước ngầm tại Hà Nội hiện nay còn bất cập. Việc quản lý các giếng khoan nhỏ lẻ vẫn chưa rõ ràng. Phần lớn giếng khoan của hộ gia đình theo dạng khoan tự do, chưa xin phép khai thác, sử dụng.
Bên cạnh đó, ý thức sử dụng, bảo vệ nguồn nước ngầm của một bộ phận không nhỏ người dân còn kém. Không những tùy tiện trong khai thác sử dụng còn gây ô nhiễm nguồn nước ngầm và nước từ hoạt động trồng trọt, chăn nuôi, ngành nghề thủ công.
Nguồn lực đầu tư cho các chương trình truyền thông còn hạn hẹp. Mỗi năm, từ nguồn ngân sách và các chương trình mục tiêu, Hà Nội chỉ mở được khoảng 40-50 lớp tập huấn. Về chất lượng các lớp này cũng rất khó đánh giá.
Trước tình trạng thiếu nước sạch ngày càng trầm trọng ở nhiều địa phương, trong những năm qua, thành phố đã đầu tư xây dựng nhiều công trình cấp nước tập trung phục vụ nhu cầu của người dân khu vực ngoại thành.
Thế nhưng, không ít công trình chưa phát huy hiệu quả, do đầu tư dở dang hoặc thiếu đồng bộ, gây lãng phí. Để giải "bài toán" này, UBND TP Hà Nội giao cho Sở NN&PTNT quy hoạch mạng lưới nước sạch và vệ sinh môi trường nông thôn giai đoạn 2012- 2020, định hướng đến năm 2030. Đồng thời triển khai đầu tư 6 trạm cấp nước liên xã, hỗ trợ 40.000 thiết bị lọc nước hộ gia đình.
Trong khi chờ các chương trình, dự án thì những bức xúc về ô nhiễm nguồn nước cần sớm được giải quyết... Một trong những giải pháp cấp bách là đưa ra các khuyến nghị, cảnh báo về mức độ ô nhiễm thông qua bộ chỉ số lấy mẫu, xét nghiệm, phân tích chất lượng nguồn nước để người dân lựa chọn sử dụng nguồn nước hợp vệ sinh như nước mưa, nước chứa trong bình. Đồng thời tổ chức các lớp tập huấn để nâng cao nhận thức trong khai thác, sử dụng nguồn nước phục vụ sinh hoạt.
Theo Hà Nội Mới

Thứ Năm, 18 tháng 10, 2012

40.000 người dân được tiếp cận với nước sạch


Từ khi triển khai các mô hình tiếp cận nước sạch, đến nay, các dự án do Coca-Cola tài trợ thực hiện đã góp phần cải thiện cuộc sống của gần 40.000 người dân.
Nhu cầu sử dụng nước sạch là vấn đề cấp thiết đối với một lượng lớn dân cư tại Việt Nam, đặc biệt là các vùng nông thôn. Nhận thức được tầm quan trọng của vấn đề trên, từ năm 2004, Công ty Coca-Cola Việt Nam đã phối hợp chặt chẽ với chính quyền địa phương và các tổ chức phi chính phủ tại Việt Nam tăng cường hỗ trợ xây dựng và nhân rộng các mô hình tiếp cận nước sạch, nâng cấp các hệ thống vệ sinh môi trường, đồng thời đẩy mạnh công tác giáo dục về nếp sống văn minh, vệ sinh và ý thức bảo vệ tài nguyên nước cho cộng đồng.
Người dân góp sức thi công lắp đặt, đem nước về từng hộ gia đình.
Người dân góp sức thi công lắp đặt, đem nước về từng hộ gia đình.
Từ đầu năm 2012, Coca-Cola tiếp tục đầu tư gần 3,2 tỷ đồng (tương đương 150.000 USD) để UN-HABITAT (Tổ chức Định cư Liên Hợp Quốc) thực hiện dự án xây dựng mạng đường ống phân phối và lắp đặt đấu nối cấp nước cho các hộ nghèo ở 3 xã vùng ven thị xã Cam Ranh, tỉnh Khánh Hòa, là Cam Thành Nam, Cam Thịnh Đông và Cam Phước Đông. Số lượng người hưởng lợi từ dự án dự kiến lên đến 4.000 người sau khi công việc thi công hoàn tất vào đầu tháng 11 năm nay.
Bên cạnh các hỗ trợ về cung cấp nước sạch cho dân nghèo, dự án cũng triển khai các hoạt động tuyên truyền nhằm nâng cao nhận thức cộng đồng về tầm quan trọng của việc sử dụng và bảo tồn nguồn nước sạch. Bà Phạm Thị Thu Hương, Cố vấn trưởng kỹ thuật của UN-HABITAT tại Việt Nam cho biết: “Sau thành công của dự án trước đây của UN-HABITAT, 85% hộ nghèo và cận nghèo ở 9 phường đô thị của Cam Ranh đã được tiếp cận với nước sạch. Với kinh phí hỗ trợ của Coca-Cola, một đối tác quan trọng của UN-HABITAT, dự án đang tiếp tục hành trình giúp cải thiện điều kiện sống cho nhiều người dân nghèo tại Cam Ranh nói riêng, và ở Việt Nam nói chung”.
Đồng thời, Coca-Cola cũng tài trợ gần 2,8 tỷ đồng (tương đương 130.000 USD) cho CEFACOM (Trung tâm Nghiên cứu Sức khoẻ Gia đình và Cộng đồng) thực hiện các hoạt động đưa nước sạch về các khu vực thiếu nước của thành phồ Hà Nội, Đà Nẵng và TP HCM. Hoạt động chính của dự án là khoan giếng, lắp đặt hệ thống lọc nước cho các hộ nghèo tại Thường Tín (Hà Nội) và cho các trường học tại quận Thủ Đức (TP HCM) có kết hợp hỗ trợ thêm trong việc nâng cấp hệ thống vệ sinh; lắp đặt đường ống, đồng hồ nước cho các hộ nghèo tại quận Hòa Vang (Đà Nẵng); đồng thời kết hợp với giáo dục vệ sinh cá nhân và ý thức bảo vệ tài nguyên nước cho cộng đồng. Sau gần 1 năm thực hiện, dự án đã đưa nước sạch trực tiếp đến cho gần 6.000 người dân.
Hàng nghìn em học sinh vui mừng được dùng nước sạch và hệ thống vệ sinh mới khi đến trường nhập học.
Hàng nghìn em học sinh vui mừng được dùng nước sạch và hệ thống vệ sinh mới khi đến trường nhập học.
Từ khi triển khai đến nay, các dự án do Coca-Cola tài trợ thực hiện đã góp phần cải thiện cuộc sống của gần 40.000 người dân, đặc biệt là các hộ gia đình khó khăn, các học sinh đang sinh sống và học tập tại các vùng nông thôn hoặc vùng ven đô thị. Ông Nguyễn Khoa Mỹ, Giám đốc Truyền thông và Đối ngoại Coca-Cola Đông Nam Á cho biết: “Các dự án cung cấp và bảo tồn nước sạch nhằm cải thiện điều kiện sống của cộng đồng luôn là một trong những hoạt động phát triển bền vững trọng tâm của Công ty Coca-Cola Việt Nam. Chúng tôi sẽ tiếp tục phối hợp với chính quyền địa phương và các tổ chức phi chính phủ tại Việt Nam để thực hiện nhiều dự án thiết thực hơn trong lĩnh vực này”.
Nguồn: coca-cola

Những công trình nước sạch tiền tỷ bị bỏ hoang


Chương trình Mục tiêu quốc gia Nước sạch và vệ sinh môi trường nông thôn rất có ý nghĩa đối với người nghèo, đồng bào dân tộc thiểu số vùng sâu, vùng xa. Tuy nhiên, vì nhiều lý do, nhiều công trình nước sạch nông thôn tại nhiều địa phương hoạt động không hiệu quả, thậm chí bị “đắp chiếu” trong khi người dân phải dùng nước ô nhiễm.
Bỏ hoang những công trình tiền tỷ
Có công trình xây dựng xong cả chục năm nhưng chưa từng vận hành hoặc chỉ vận hành được một thời gian rồi lại bỏ hoang. Đây là thực tế sử dụng công trình nước sạch nông thôn tại một số địa phương ở Hà Nội.
Dân dùng nước ô nhiễm, trạm nước sạch bỏ hoang
Ông Trần Ngọc Thuần (xóm 6, thôn Trung Văn, xã Trung Văn, huyện Từ Liêm) từ trước đến nay chưa một lần được dùng nguồn nước sạch mặc dù công trình nước sạch nông thôn của thôn Trung Văn được đầu tư xây dựng từ những năm 2000.
Trạm bơm nước Trung Văn
Trạm bơm nước Trung Văn
Theo ông Nguyễn Tùng Lâm, Phó Chủ tịch UBND xã, công trình xây dựng thành 2 giai đoạn. Giai đoạn 1 đầu tư các hạng mục: giếng khoan, máy bơm, bể lọc, bể chứa nước. Giai đoạn 2 (năm 2006) đầu tư đường ống đến tận các hộ dân trong thôn. Năm 2009, UBND xã đã bàn giao cho HTX Quyết Tiến quản lý, vận hành. Tuy nhiên, sau gần 2 tháng dùng thử, đến nay, công trình cung cấp nước sạch này bị đóng cửa, bỏ hoang.
Hệ thống nước sạch hiện nay không hoạt động, trong khi đó, theo ông Nguyễn Tùng Lâm, người dân phải dùng nước sinh hoạt không đảm bảo vệ sinh. “Hiện nay, nhà nào cũng phải dùng nước giếng khoan. Nhà nào cũng khoan giếng sâu gần 90 m. Nước không lọc thì để một lúc, đáy đọng cặn vàng như bùn. Các nhà có kinh tế khá đều phải mua máy lọc nước 3- 4 triệu đồng để lọc lấy nước nấu ăn”, ông Trần Ngọc Thuần cho biết.
Hiện nay, các máy bơm áp vẫn được bảo quản tốt nhưng theo bà Nguyễn Thị Len, Chủ nhiệm HTX Quyết Tiến, toàn bộ hệ thống đường ống làm bằng kẽm qua nhiều năm bị chôn sâu trong lòng đất nên xuống cấp nghiêm trọng. Đường ống trục chính bị bục nhiều chỗ sau nhiều lần nâng cấp đường làng.
Theo bà Nguyễn Thị Len, trước nhu cầu về nước sạch của người dân trong thôn, HTX đã kiến nghị với Đảng ủy, Hội đồng nhân dân và UBND xin được khớp nối với hệ thống nước sạch Sông Đà từ dự án Vinaconex 3 để người dân được dùng nước chất lượng tốt. Đồng thời, cũng mong muốn thay toàn bộ hệ thống đường ống mới bằng chất liệu polime để lắp đặt.
Máy bơm áp Trung Văn
Máy bơm áp Trung Văn
Tuy nhiên các cán bộ xã cũng chưa chắc chắn là bao giờ người dân thôn Trung Văn mới có nước sạch đảm bảo tiêu chuẩn để dùng.
Công trình vài tỷ đồng: Xây rồi… “để đấy”
Thực trạng các công trình nước sạch bị lãng phí không chỉ là chuyện của riêng thôn Trung Văn. Ông Lý Danh Sơn, Phó Giám đốc Trung tâm nước sinh hoạt và vệ sinh môi trường nông thôn thành phố Hà Nội (Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn – (NN&PTNT) – Hà Nội) cho biết: Đến hết năm 2011, cả thành phố có 104 công trình nước sạch nông thôn được xây dựng bằng cơ chế: ngân sách trung ương, ngân sách địa phương và dân đóng góp. Với các công trình này, chủ yếu ngân sách cấp là để xây dựng công trình đầu mối, một số mạng đường ống trục chính. Đến hết năm 2011 có 91 công trình đang hoạt động, còn lại là những công trình chưa một lần vận hành.
Một số trạm cấp nước xây dựng dở dang do Nhà nước đầu tư 60% kinh phí nhưng địa phương không huy động được dân đóng góp nên dùng hết tiền Nhà nước đầu tư là… “để đấy”. Mỗi công trình đầu tư vài ba tỉ đồng, có công trình 6 – 7 tỷ đồng. Một số công trình khác, như ở xã Xuân Nộn (huyện Đông Anh) do quá trình khảo sát lập dự án đầu tư, chủ dự án không làm đến nơi đến chốn, khi làm đến công đoạn lắp đường ống, đồng hồ thì dân không chịu bỏ tiền đóng góp thêm, nên cũng không hoạt động được.
Riêng 5 công trình cấp nước ở các xã Phù Đổng, Kim Lan (huyện Gia Lâm), Nam Phương Tiến (huyện Chương Mỹ), Xuân Nộn (huyện Đông Anh), An Mỹ (huyện Mỹ Đức) hiện nay đã bị hư hỏng, xuống cấp trầm trọng do đầu tư xây dựng chưa đồng bộ. Có những công trình xây dựng từ năm 1998 mà vẫn chưa đưa vào hoạt động. “Công trình ở thôn Đoan Nữ (xã An Mỹ, huyện Mỹ Đức) xây dựng năm 1998, đến nay, trong trạm bơm không còn gì, bể nứt vỡ. Nhà trạm bơm thì dân dùng để bán gà, ngan, vịt, ngỗng quay. Trạm cấp nước thì rêu, cát tấn công”, ông Sơn mô tả.
Thảm cảnh tương tự là Trạm cấp nước ở xã Phù Đổng (huyện Gia Lâm) xây dựng khoảng năm 2002 hoặc trạm của thôn Kim Tiên (xã Xuân Nộn, huyện Đông Anh) xây dựng xong khoảng năm 2000 nhưng vẫn chưa vận hành một ngày nào. Ông Sơn ngán ngẩm: “Có hai giả thiết. Một là do công tác lập dự án không đến nơi đến chốn và hai là công tác quản lý dự án không tốt nên dự án đã được đầu tư nhưng vẫn không được đưa vào sử dụng”

Nhiều công trình cấp nước bị bỏ hoang


QĐND - Lần đầu tiên tỉnh Đắc Lắc thực hiện tổng khảo sát, điều tra thực trạng khai thác các công trình cấp nước tập trung (CTCNTT) trên địa bàn. Kết quả cho thấy có tới 60% công trình đang bị bỏ hoang hoặc hoạt động kém hiệu quả.
Cụ thể, Liên hiệp các Hội khoa học và kỹ thuật tỉnh Đắc Lắc đã khảo sát 82 công trình quy mô lớn và vừa trên địa bàn và phát hiện chỉ có 16 công trình tốt, 17 công trình trung bình, 49 công trình còn lại đều trong tình trạng bị bỏ hoang hoặc hoạt động kém hiệu quả. Những công trình đang bị bỏ hoang là: Buôn Tul (huyện Buôn Đôn), Cư Kbang (Ea Súp), Buôn Trấp (huyện Krông Năng), Đray Linh (TP Buôn Ma Thuột)… Đặc biệt, cụm 5 CTCNTT, gồm: Ea Tul (huyện Cư M’gar), Ea Rốk (huyện Ea Súp), Ea M’lay (huyện MĐrắc), Ea Tóh (huyện Krông Năng), Cư Kty (huyện Krông Bông) được xây dựng từ năm 2008 đến nay, với vốn đầu tư từ dăm bảy tỷ đồng đến hàng chục tỷ đồng hiện trong tình trạng không hoạt động hoặc bị bỏ hoang.
Công trình cấp nước sinh hoạt ở xã Phú Lộc, huyện Krông Năng bị bỏ hoang.
Nguyên nhân được xác định như sau: Công trình bị bỏ hoang, hoạt động kém hiệu quả là do lâu nay không có ai quản lý, vận hành. Các công trình giao cho chính quyền xã thường do một phó chủ tịch UBND xã phụ trách kiêm nhiệm, vị phó chủ tịch này sau đó sẽ giao công trình cho một số cộng tác viên. Kết quả 35 công trình giao chính quyền xã quản lý, vận hành thì có tới 31 công trình hoạt động rất yếu, chỉ có 4 công trình xếp loại trung bình, không có công trình nào được xếp loại tốt. Bên cạnh đó, 32 công trình do các HTX, hội dùng nước quản lý cũng có đến 18 công trình bị bỏ hoang hoặc hoạt động cực kỳ yếu kém, số còn lại đang hoạt động cầm chừng. Một số công trình do cấp xã và thôn, buôn quản lý, dù theo báo cáo là vẫn đang có nước, nhưng do nước đầu nguồn ô nhiễm, các bể lắng, thiết bị lọc… lâu ngày không được làm vệ sinh, xả thải, xả cặn.
 Tiến sĩ Tôn Nữ Tuấn Nam, phụ trách nhóm điều tra khảo sát cho biết: Một kết quả rất bất ngờ khi thực hiện khảo sát tại 15 công trình cấp nước tập trung  do Trung tâm Nước sinh hoạt và vệ sinh môi trường nông thôn (TTNSH&VSMTNT) tỉnh Đắc Lắc quản lý, có tới 14 công trình xếp loại tốt, chỉ 1 công trình xếp loại trung bình. Điều này cho thấy, “căn bệnh” của các CTCNTT bị bỏ hoang hoặc hoạt động yếu kém không phải là không có “thuốc chữa”.
Ông Phạm Phú Bổn, Giám đốc TTNSH&VSMTNT tỉnh Đắc Lắc tâm sự: Không phải trung tâm có bí quyết gì ghê gớm trong công tác quản lý, vận hành các CTCNTT, mà đó chỉ là kết quả của việc thực hiện một cách bài bản. Trung tâm cũng lấy người tại địa phương để quản lý, vận hành công trình. Sau khi ký hợp đồng làm việc, những người này được đào tạo về chuyên môn, sau đó cứ 2 năm sẽ được thi nâng ngạch một lần, theo tiêu chuẩn của công nhân kỹ thuật. Các quyền lợi khác như bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế... được bảo đảm. Nhờ đó họ yên tâm làm việc và làm việc với trách nhiệm cao nhất. Bên cạnh đó, các phòng kỹ thuật, dịch vụ, tuyên truyền... luôn thực hiện rất tốt nhiệm vụ chuyên môn. Tất cả những hư hỏng, sự cố được khắc phục kịp thời. Thời gian tới, Trung tâm sẽ tổ chức bộ phận chuyên trách xét nghiệm để bảo đảm về chất lượng nước cho các công trình. Quyền lợi người dùng nước được bảo đảm khiến họ tin tưởng về chất lượng nước và muốn sử dụng lâu dài.
Trên cơ sở kết quả điều tra khảo sát, các nhà khoa học đề xuất giải pháp khắc phục như sau: Thứ nhất, cần  xác định các đơn vị có đủ năng lực quản lý, vận hành (ở đây là TTNSH&VSMTNT tỉnh Đắc Lắc) để chuyển giao CTCNTT cho đơn vị này quản lý khai thác. Thứ hai, có một lộ trình phù hợp (ít nhất là 2 năm) để khắc phục những công trình hư hỏng và đưa các công trình vốn bị bỏ hoang vào hoạt động trở lại. Thứ ba, hạn chế tới mức thấp nhất việc đầu tư mới và tập trung kinh phí cho việc sửa chữa các công trình cũ bị hư hỏng.
Bài và ảnh: Việt Dũng-Bình Định

Nhiều công trình cấp nước tập trung không hiệu quả


(Hà Tĩnh 24h ) - Chiều 8-10, Ban KT-NS, HĐND tỉnh đã tổ chức buổi làm việc và thực tế khảo sát các công trình cấp nước tập trung trên địa bàn huyện Thạch Hà.

Công trình cấp nước tập trung tại xã Nam Hương bị hư hỏng, không phát huy tác dụng.
Trên địa bàn huyện Thạch Hà có 7 xã có công trình cấp nước tập trung. Đến nay, chỉ có 2 địa phương có công trình cấp nước tập trung vẫn phát huy hiệu quả là: thị trấn Thạch Hà cung cấp nước sinh hoạt cho 800 hộ dân và xã Bắc Sơn phục vụ nước sinh hoạt cho 310 hộ dân. Còn lại các công trình khác đã xuống cấp, hư hỏng và không phát huy tác dụng. Nguyên nhân chính là do việc đầu tư không đồng bộ, công tác quản lý kém hiệu quả nên hệ thống bể chứa, đường ống bị hư hỏng không có kinh phí sửa chữa. Đặc biệt, có công trình do trong qúa trình đầu tư xây dựng không khảo sát thiết kế tốt nên không có nguồn cấp nước như công trình cấp nước tập trung tại xã Thạch Long.
Nhiều công trình cấp nước tập trung không phát huy hiệu quả
Công trình cấp nước tập trung của xã Bắc Sơn là một trong số ít công trình vẫn đang phát huy hiệu quả trên địa bàn toàn tỉnh
Đoàn giám sát cũng đã đi kiểm tra thực tế công trình cấp nước tập trung tại xã Bắc Sơn và xã Nam Hương. Công trình của xã Bắc Sơn được đầu tư xây dựng năm 2006, công suất thiết kế 100m3/ngày/đêm. Hiện tại, công trình vẫn sử dụng tốt. UBND xã Bắc Sơn đã cho nhân dân đấu nối trực tiếp vào đường ống, lắp đồng hồ nước tại các hộ gia đình. Đây được xem là một trong những mô hình tốt, phát huy hiệu quả nhất trên địa bàn toàn tỉnh. Riêng công trình ở xã Nam Hương được xây dựng năm 2004 đã bị hư hỏng nặng, không còn tính năng sử dụng.
Thăng long
( Theo: Báo Hà Tĩnh )

Công nghệ xử lý bùn


Công nghệ xử lý nước thải không chỉ quan tâm đến những tiêu chi về chi phí đầu tư, chi phí vận hành và chất lượng nước thải sau xử lý mà còn quan tâm đến việc quản lý bùn thải. Công nghệ phải đảm bảo thể tích bùn thải thấp nhằm giảm thiểu chi phí quản lý bùn thải và góp phần giảm khối lượng chất thải rắn ra môi trường. 
Để giảm thể tích bùn thải, ngoài việc tối ưu công nghệ xuyên suốt quy trình xử lý để thể tích bùn thải sinh ra thấp nhất, mà còn có quy trình giảm thể tích bùn sinh ra phải làm việc một cách hiệu quả.
  
Các phương pháp truyền thống đang áp dụng như sau
 
Phương pháp nén bùn
Quá trình nén bùn làm đặc bùn có thể thực hiện bằng lắng trọng lực, thiết bị có tên là thiết bị nén đặc bùn (thickener). Phương pháp này ứng dụng tối ưu quá trình lý học nghĩa là nén ly tâm và nén trọng lực một cách hiệu quả.
 
Phương pháp sinh học
Quá trình ổn định bùn nhằm phân hủy sinh học kỵ khí và hiếu khí các chất hữu cơ thành CO2, CH4 và H2O, giảm vấn đề mùi hoặc loại trừ sự thối rửa của bùn. Quá trình này cũng có tác dụng giảm số lượng vi khuẩn gây bệnh và giảm thể tích bùn cặn.
 
Phương pháp tách nước
Việc lựa chọn thiết bị tách nước ứng với từng loại bùn thải, khối lượng bùn thải và nồng độ chất keo tụ phụ thuộc nhiều vào kinh nghiệm thực tiễn.Quá trình tách nước nhằm giảm độ ẩm của bùn và thường sự dụng phương pháp lọc chân không, sân phơi cát, máy ép băng tải, máy ép ly tâm.

Thứ Hai, 15 tháng 10, 2012

Xử lý nước nhiễm phèn


Trong nước thiên nhiên, kể cả nước mặt và nước ngầm đều có chứa sắt. Hàm lượng sắt và dạng tồn tại của chúng tùy thuộc vào từng loại nguồn nước, điều kiện môi trường.
Trong nước mặt, sắt tồn tại ở dạng hợp chất Fe3+, dạng keo hay huyền phù. Hàm lượng này thường không lớn và sẽ được khử trong quá trình làm trong nước.
Trong nước ngầm, sắt thường tồn tại ở dạng ion sắt hóa trị 2 trong thành phần của các muối hòa tan như bicacbonat, sunfat, clorua..Hàm lượng sắt này thường cao và phân bố không đồng đều trong các lớp trầm tích dưới sâu.
Khi trong nước có hàm lượng sắt cao, nước có mùi tanh và có nhiều cặn bẩn màu vàng, làm giảm chất lượng nước ăn uống sinh hoạt và sản xuất. Vì vậy, khi trong nước có hàm lượng sắt lớn hơn giới hạn cho phép thì phải tiến hành khử sắt.
CÁC GIẢI PHÁP
1.    Khử sắt bằng phương pháp làm thoáng
Thực chất của phương pháp khử sắt bằng làm thoáng là làm giàu oxy cho nước, tạo điều kiện để Fe2+ oxy hóa thành Fe3+ thực hiện quá trình thủy phân để tạo thành hợp chất ít tan Fe(OH)3 rồi dùng bể lọc để giữ lại.
2.    Khử sắt bằng phương pháp hóa chất
2.1.  Khử sắt bằng các chất oxy hóa mạnh
Các chất oxy hóa mạnh thường sử dụng để khử sắt là: Cl2, KMnO4, O3…Phản ứng diễn ra như sau
2Fe2+ + Cl2 + 6H2 2Fe(OH)  + 2Cl- + 6H+
3Fe2+ + KMnO4 + 7H2 3Fe(OH)  + MnO2 + K+ + 5H+
Trong phản ứng, để oxy hóa 1 mg Fe2+ cần 0.64mg Cl2 hoặc 0.94mg KMnO4 và đồng thời độ kiềm của nước giảm đi 0.018meq/l
 
2.2.Khử sắt bằng vôi
Phương pháp khử sắt bằng vôi thường không đứng đôc lập, mà kết hợp với các quá trình làm ổn định nước hoặc làm mềm nước. Phản ứng xảy ra theo 2 trường hợp
♦ Có oxy hòa tan
4Fe(HCO3)2 + O2 + 2H2O + 4Ca(OH)2  4Fe(OH)3  + 4Ca(HCO3)2
Sắt (III)hydroxyt được tạo thành, dễ dàng lắng lại trong bể lắng và giữ lại hoàn toàn trong bể lọc.
♦ Không có oxy hòa tan
Fe(HCO3)2 + Ca(OH)2  Fe CO3 + CaCO3 + 2H2O
Sắt được khử đi dưới dạng FeCO3 chứ không phải hydroxyt sắt
3.    Các phương pháp khử sắt khác:
3.1.Khử sắt bằng trao đổi Cation
Cho nước đi qua lớp vật liệu lọc có khả năng trao đổi ion. Các ion H+ và Na+ có trong thành phần của lớp vật liệu lọc, sẽ trao đổi với các ion Fe2+ có trong nước. Kết quả Fe2+ được giữ lại trong lớp vật liệu lọc. Lớp vật liệu lọc có khả năng trao đổi ion là Cation thường được sử dụng cho nguồn nước có chứa Fe2+ ở dạng hòa tan
3.2.Khử sắt bằng điện phân
3.2.Khử sắt bằng phương pháp vi sinh vật.

Xử lý nước cứng

Bơm định lượng OBL - Ý

Độ cứng của nước là số đo hàm lượng các ion kim loại Ca2+ và Mg2+ có trong nước.
Độ cứng của nước được gọi là tạm thời khi có mặt của muối cacbonat và bicacbonat Ca, Mg. Loại nước này khi đun sôi sẽ tạo ra muối kết tủa CaCO3 và MgCO3.
Độ cứng vĩnh cữu của nước do các loại muối sunfat hoặc clorua Ca, Mg tạo ra. Loại muối này thường khó xử lý.
Trong sinh hoạt, độ cứng cao gây lãng phí xà phòng và các chất tẩy rửa, tạo cặn lắng bám trên bề mặt các trang thiết bị sinh hoạt.
Trong công nghiệp độ cứng của nước gây cản trở cho quá trình vận chuyển và làm giảm năng lực truyền nhiệt, giảm tuổi thọ của thiết bị.
CÁC GIẢI PHÁP
Có nhiều phương pháp làm mềm nước, vì thế phải căn cứ vào mức độ làm mềm cần thiết (độ cứng cho phép còn lại của nước), chất lượng nước nguồn và các chỉ tiêu kinh tế khác để chọn ra phương pháp làm mềm thích hợp nhất.
Để làm mềm nước, người ta dùng các phương pháp sau:
-      Làm mềm nước bằng hóa chất: pha các hóa chất khác nhau vào nước để kết hợp với ion Ca2+ và Mg2+ tạo thành các hợp chất không tan trong nước
-      Phương pháp nhiệt: đun nóng hoặc chưng cất nước.
-      Phương pháp trao đổi ion: lọc nước cần làm mềm qua lớp lọc cationit có khả năng trao đổi Na+ hoặc H+ có trong thành phần của hạt cationit với ion Ca2+ và Mg2+ hòa tan trong nước và giữ chúng lại trên bề mặt của các hạt lớp vật liệu lọc.
-      Phương pháp tổng hợp: là phương pháp phối hợp 2 trong 3 phương pháp trên.
-      Lọc qua màng bán thấm, thẩm thấu ngược (RO)
1.    Phương pháp nhiệt
Cơ sở lý thuyết của phương pháp này là dùng nhiệt để bốc hơi khí cacbonic hòa tan trong nước. Trạng thái cân bằng của các hợp chất cacbonic sẽ chuyển dịch theo phương trình phản ứng sau:
               2HCO3-  CO32- + H2O + CO2 ­
               Ca2+ + CO32-  CaCO3  
Nên        Ca(HCO3)2  CaCO3   + CO2 ­ + H2O
Tuy nhiên, khi đun nóng nước chỉ khử được hết khí CO2 và giảm độ cứng cacbonat của nước, còn lượng CaCO3hòa tan vẫn còn tồn tại trong nước.
Riêng đối với Mg, quá trình khử xảy ra qua hai bước. Ở nhiệt độ thấp (đến 180C) ta có phản ứng:
               Mg(HCO3)2  MgCO3 + CO2­ + H2O
Khi tiếp tục tăng nhiệt độ, MgCO3 bị thủy phân theo phản ứng:
               MgCO3 + H2 Mg(OH)2  + CO2­
2.    Phương pháp hóa chất
Trong thực tế áp dụng hàng loạt phương pháp xử lý nước bằng hóa chất với mục đích kệt hợp các ion Ca2+ và  Mg2+ hòa tan trong nước thành các hợp chất không tan dễ lắng và lọc. Các hóa chất thường dùng để làm mềm nước là vôi, sođa Na2CO3, xút NaOH, hyđrôxit bari Ba(OH)2, photphat natri Na3PO4.
Chọn phương án làm mềm nước bằng hóa chất cần phải dựa vào chất lượng nước nguồn và mức độ làm mềm cần thiết. Trong một vài trường hợp có thể kết hợp làm mềm nước với khử sắt, khử silic, khử photphat…
Ngoài ra trong mỗi trường hợp cụ thể phải dựa trên cơ sở so sánh kinh tế kỹ thuật giữa các phương pháp, đặc biệt là với phương pháp làm mềm bằng cationit.
2.1.     Khử độ cứng cacbonat của nước bằng vôi
Khử độ cứng cacbonat của nước bằng vôi có thể áp dụng trong trường hợp ngoài yêu cầu giảm độ cứng cần phải giảm cả độ kiềm của nước.
2.2.     Làm mềm nước bằng vôi và sođa (Na2CO3)
Làm mềm nước bằng vôi và sođa là phương pháp có hiệu quả đối với thành phần ion bất kỳ của nước. Khi cho vôi vào nước khử được độ cứng canxi và magiê ở mức tương đương với hàm lượng của ion hyđrôcacbonat trong nước.
2.3.     Làm mềm nước làm phốt phát và bari:
Khi làm mềm nước bằng vôi và sođa do độ cứng của nước sau khi làm mềm còn tương đối lớn, người ta bổ sung phương pháp làm mềm triệt để bằng photphat. Hóa chất thường dùng là trinatri photphat hay dinatri photphat. Khi cho các hóa chất này vào nước chúng sẽ phản ứng với ion canxi và magiê tạo ra muối photphat của canxi và magiê không tan trong nước.
Để khử độ cứng sunfat có thể dùng cacbonat bari BaCO3, hyđrôxit bari Ba(OH)2 hay aluminat bari Ba(AlO2)2.
3.    Phương pháp trao đổi ion
Làm mềm nước bằng cationit dựa trên tính chất của một số chất không tan hoặc hầu như không tan trong nước – cationit, nhưng có khả năng trao đổi, khi ngâm trong nước, các chất này hấp thụ cation của muối hòa tan lên bề mặt hạt và nhả vào nước một số lượng tương đương cation đã được cấy lên bề mặt hạt từ trước.