Trang

Thứ Năm, 18 tháng 10, 2012

40.000 người dân được tiếp cận với nước sạch


Từ khi triển khai các mô hình tiếp cận nước sạch, đến nay, các dự án do Coca-Cola tài trợ thực hiện đã góp phần cải thiện cuộc sống của gần 40.000 người dân.
Nhu cầu sử dụng nước sạch là vấn đề cấp thiết đối với một lượng lớn dân cư tại Việt Nam, đặc biệt là các vùng nông thôn. Nhận thức được tầm quan trọng của vấn đề trên, từ năm 2004, Công ty Coca-Cola Việt Nam đã phối hợp chặt chẽ với chính quyền địa phương và các tổ chức phi chính phủ tại Việt Nam tăng cường hỗ trợ xây dựng và nhân rộng các mô hình tiếp cận nước sạch, nâng cấp các hệ thống vệ sinh môi trường, đồng thời đẩy mạnh công tác giáo dục về nếp sống văn minh, vệ sinh và ý thức bảo vệ tài nguyên nước cho cộng đồng.
Người dân góp sức thi công lắp đặt, đem nước về từng hộ gia đình.
Người dân góp sức thi công lắp đặt, đem nước về từng hộ gia đình.
Từ đầu năm 2012, Coca-Cola tiếp tục đầu tư gần 3,2 tỷ đồng (tương đương 150.000 USD) để UN-HABITAT (Tổ chức Định cư Liên Hợp Quốc) thực hiện dự án xây dựng mạng đường ống phân phối và lắp đặt đấu nối cấp nước cho các hộ nghèo ở 3 xã vùng ven thị xã Cam Ranh, tỉnh Khánh Hòa, là Cam Thành Nam, Cam Thịnh Đông và Cam Phước Đông. Số lượng người hưởng lợi từ dự án dự kiến lên đến 4.000 người sau khi công việc thi công hoàn tất vào đầu tháng 11 năm nay.
Bên cạnh các hỗ trợ về cung cấp nước sạch cho dân nghèo, dự án cũng triển khai các hoạt động tuyên truyền nhằm nâng cao nhận thức cộng đồng về tầm quan trọng của việc sử dụng và bảo tồn nguồn nước sạch. Bà Phạm Thị Thu Hương, Cố vấn trưởng kỹ thuật của UN-HABITAT tại Việt Nam cho biết: “Sau thành công của dự án trước đây của UN-HABITAT, 85% hộ nghèo và cận nghèo ở 9 phường đô thị của Cam Ranh đã được tiếp cận với nước sạch. Với kinh phí hỗ trợ của Coca-Cola, một đối tác quan trọng của UN-HABITAT, dự án đang tiếp tục hành trình giúp cải thiện điều kiện sống cho nhiều người dân nghèo tại Cam Ranh nói riêng, và ở Việt Nam nói chung”.
Đồng thời, Coca-Cola cũng tài trợ gần 2,8 tỷ đồng (tương đương 130.000 USD) cho CEFACOM (Trung tâm Nghiên cứu Sức khoẻ Gia đình và Cộng đồng) thực hiện các hoạt động đưa nước sạch về các khu vực thiếu nước của thành phồ Hà Nội, Đà Nẵng và TP HCM. Hoạt động chính của dự án là khoan giếng, lắp đặt hệ thống lọc nước cho các hộ nghèo tại Thường Tín (Hà Nội) và cho các trường học tại quận Thủ Đức (TP HCM) có kết hợp hỗ trợ thêm trong việc nâng cấp hệ thống vệ sinh; lắp đặt đường ống, đồng hồ nước cho các hộ nghèo tại quận Hòa Vang (Đà Nẵng); đồng thời kết hợp với giáo dục vệ sinh cá nhân và ý thức bảo vệ tài nguyên nước cho cộng đồng. Sau gần 1 năm thực hiện, dự án đã đưa nước sạch trực tiếp đến cho gần 6.000 người dân.
Hàng nghìn em học sinh vui mừng được dùng nước sạch và hệ thống vệ sinh mới khi đến trường nhập học.
Hàng nghìn em học sinh vui mừng được dùng nước sạch và hệ thống vệ sinh mới khi đến trường nhập học.
Từ khi triển khai đến nay, các dự án do Coca-Cola tài trợ thực hiện đã góp phần cải thiện cuộc sống của gần 40.000 người dân, đặc biệt là các hộ gia đình khó khăn, các học sinh đang sinh sống và học tập tại các vùng nông thôn hoặc vùng ven đô thị. Ông Nguyễn Khoa Mỹ, Giám đốc Truyền thông và Đối ngoại Coca-Cola Đông Nam Á cho biết: “Các dự án cung cấp và bảo tồn nước sạch nhằm cải thiện điều kiện sống của cộng đồng luôn là một trong những hoạt động phát triển bền vững trọng tâm của Công ty Coca-Cola Việt Nam. Chúng tôi sẽ tiếp tục phối hợp với chính quyền địa phương và các tổ chức phi chính phủ tại Việt Nam để thực hiện nhiều dự án thiết thực hơn trong lĩnh vực này”.
Nguồn: coca-cola

Những công trình nước sạch tiền tỷ bị bỏ hoang


Chương trình Mục tiêu quốc gia Nước sạch và vệ sinh môi trường nông thôn rất có ý nghĩa đối với người nghèo, đồng bào dân tộc thiểu số vùng sâu, vùng xa. Tuy nhiên, vì nhiều lý do, nhiều công trình nước sạch nông thôn tại nhiều địa phương hoạt động không hiệu quả, thậm chí bị “đắp chiếu” trong khi người dân phải dùng nước ô nhiễm.
Bỏ hoang những công trình tiền tỷ
Có công trình xây dựng xong cả chục năm nhưng chưa từng vận hành hoặc chỉ vận hành được một thời gian rồi lại bỏ hoang. Đây là thực tế sử dụng công trình nước sạch nông thôn tại một số địa phương ở Hà Nội.
Dân dùng nước ô nhiễm, trạm nước sạch bỏ hoang
Ông Trần Ngọc Thuần (xóm 6, thôn Trung Văn, xã Trung Văn, huyện Từ Liêm) từ trước đến nay chưa một lần được dùng nguồn nước sạch mặc dù công trình nước sạch nông thôn của thôn Trung Văn được đầu tư xây dựng từ những năm 2000.
Trạm bơm nước Trung Văn
Trạm bơm nước Trung Văn
Theo ông Nguyễn Tùng Lâm, Phó Chủ tịch UBND xã, công trình xây dựng thành 2 giai đoạn. Giai đoạn 1 đầu tư các hạng mục: giếng khoan, máy bơm, bể lọc, bể chứa nước. Giai đoạn 2 (năm 2006) đầu tư đường ống đến tận các hộ dân trong thôn. Năm 2009, UBND xã đã bàn giao cho HTX Quyết Tiến quản lý, vận hành. Tuy nhiên, sau gần 2 tháng dùng thử, đến nay, công trình cung cấp nước sạch này bị đóng cửa, bỏ hoang.
Hệ thống nước sạch hiện nay không hoạt động, trong khi đó, theo ông Nguyễn Tùng Lâm, người dân phải dùng nước sinh hoạt không đảm bảo vệ sinh. “Hiện nay, nhà nào cũng phải dùng nước giếng khoan. Nhà nào cũng khoan giếng sâu gần 90 m. Nước không lọc thì để một lúc, đáy đọng cặn vàng như bùn. Các nhà có kinh tế khá đều phải mua máy lọc nước 3- 4 triệu đồng để lọc lấy nước nấu ăn”, ông Trần Ngọc Thuần cho biết.
Hiện nay, các máy bơm áp vẫn được bảo quản tốt nhưng theo bà Nguyễn Thị Len, Chủ nhiệm HTX Quyết Tiến, toàn bộ hệ thống đường ống làm bằng kẽm qua nhiều năm bị chôn sâu trong lòng đất nên xuống cấp nghiêm trọng. Đường ống trục chính bị bục nhiều chỗ sau nhiều lần nâng cấp đường làng.
Theo bà Nguyễn Thị Len, trước nhu cầu về nước sạch của người dân trong thôn, HTX đã kiến nghị với Đảng ủy, Hội đồng nhân dân và UBND xin được khớp nối với hệ thống nước sạch Sông Đà từ dự án Vinaconex 3 để người dân được dùng nước chất lượng tốt. Đồng thời, cũng mong muốn thay toàn bộ hệ thống đường ống mới bằng chất liệu polime để lắp đặt.
Máy bơm áp Trung Văn
Máy bơm áp Trung Văn
Tuy nhiên các cán bộ xã cũng chưa chắc chắn là bao giờ người dân thôn Trung Văn mới có nước sạch đảm bảo tiêu chuẩn để dùng.
Công trình vài tỷ đồng: Xây rồi… “để đấy”
Thực trạng các công trình nước sạch bị lãng phí không chỉ là chuyện của riêng thôn Trung Văn. Ông Lý Danh Sơn, Phó Giám đốc Trung tâm nước sinh hoạt và vệ sinh môi trường nông thôn thành phố Hà Nội (Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn – (NN&PTNT) – Hà Nội) cho biết: Đến hết năm 2011, cả thành phố có 104 công trình nước sạch nông thôn được xây dựng bằng cơ chế: ngân sách trung ương, ngân sách địa phương và dân đóng góp. Với các công trình này, chủ yếu ngân sách cấp là để xây dựng công trình đầu mối, một số mạng đường ống trục chính. Đến hết năm 2011 có 91 công trình đang hoạt động, còn lại là những công trình chưa một lần vận hành.
Một số trạm cấp nước xây dựng dở dang do Nhà nước đầu tư 60% kinh phí nhưng địa phương không huy động được dân đóng góp nên dùng hết tiền Nhà nước đầu tư là… “để đấy”. Mỗi công trình đầu tư vài ba tỉ đồng, có công trình 6 – 7 tỷ đồng. Một số công trình khác, như ở xã Xuân Nộn (huyện Đông Anh) do quá trình khảo sát lập dự án đầu tư, chủ dự án không làm đến nơi đến chốn, khi làm đến công đoạn lắp đường ống, đồng hồ thì dân không chịu bỏ tiền đóng góp thêm, nên cũng không hoạt động được.
Riêng 5 công trình cấp nước ở các xã Phù Đổng, Kim Lan (huyện Gia Lâm), Nam Phương Tiến (huyện Chương Mỹ), Xuân Nộn (huyện Đông Anh), An Mỹ (huyện Mỹ Đức) hiện nay đã bị hư hỏng, xuống cấp trầm trọng do đầu tư xây dựng chưa đồng bộ. Có những công trình xây dựng từ năm 1998 mà vẫn chưa đưa vào hoạt động. “Công trình ở thôn Đoan Nữ (xã An Mỹ, huyện Mỹ Đức) xây dựng năm 1998, đến nay, trong trạm bơm không còn gì, bể nứt vỡ. Nhà trạm bơm thì dân dùng để bán gà, ngan, vịt, ngỗng quay. Trạm cấp nước thì rêu, cát tấn công”, ông Sơn mô tả.
Thảm cảnh tương tự là Trạm cấp nước ở xã Phù Đổng (huyện Gia Lâm) xây dựng khoảng năm 2002 hoặc trạm của thôn Kim Tiên (xã Xuân Nộn, huyện Đông Anh) xây dựng xong khoảng năm 2000 nhưng vẫn chưa vận hành một ngày nào. Ông Sơn ngán ngẩm: “Có hai giả thiết. Một là do công tác lập dự án không đến nơi đến chốn và hai là công tác quản lý dự án không tốt nên dự án đã được đầu tư nhưng vẫn không được đưa vào sử dụng”

Nhiều công trình cấp nước bị bỏ hoang


QĐND - Lần đầu tiên tỉnh Đắc Lắc thực hiện tổng khảo sát, điều tra thực trạng khai thác các công trình cấp nước tập trung (CTCNTT) trên địa bàn. Kết quả cho thấy có tới 60% công trình đang bị bỏ hoang hoặc hoạt động kém hiệu quả.
Cụ thể, Liên hiệp các Hội khoa học và kỹ thuật tỉnh Đắc Lắc đã khảo sát 82 công trình quy mô lớn và vừa trên địa bàn và phát hiện chỉ có 16 công trình tốt, 17 công trình trung bình, 49 công trình còn lại đều trong tình trạng bị bỏ hoang hoặc hoạt động kém hiệu quả. Những công trình đang bị bỏ hoang là: Buôn Tul (huyện Buôn Đôn), Cư Kbang (Ea Súp), Buôn Trấp (huyện Krông Năng), Đray Linh (TP Buôn Ma Thuột)… Đặc biệt, cụm 5 CTCNTT, gồm: Ea Tul (huyện Cư M’gar), Ea Rốk (huyện Ea Súp), Ea M’lay (huyện MĐrắc), Ea Tóh (huyện Krông Năng), Cư Kty (huyện Krông Bông) được xây dựng từ năm 2008 đến nay, với vốn đầu tư từ dăm bảy tỷ đồng đến hàng chục tỷ đồng hiện trong tình trạng không hoạt động hoặc bị bỏ hoang.
Công trình cấp nước sinh hoạt ở xã Phú Lộc, huyện Krông Năng bị bỏ hoang.
Nguyên nhân được xác định như sau: Công trình bị bỏ hoang, hoạt động kém hiệu quả là do lâu nay không có ai quản lý, vận hành. Các công trình giao cho chính quyền xã thường do một phó chủ tịch UBND xã phụ trách kiêm nhiệm, vị phó chủ tịch này sau đó sẽ giao công trình cho một số cộng tác viên. Kết quả 35 công trình giao chính quyền xã quản lý, vận hành thì có tới 31 công trình hoạt động rất yếu, chỉ có 4 công trình xếp loại trung bình, không có công trình nào được xếp loại tốt. Bên cạnh đó, 32 công trình do các HTX, hội dùng nước quản lý cũng có đến 18 công trình bị bỏ hoang hoặc hoạt động cực kỳ yếu kém, số còn lại đang hoạt động cầm chừng. Một số công trình do cấp xã và thôn, buôn quản lý, dù theo báo cáo là vẫn đang có nước, nhưng do nước đầu nguồn ô nhiễm, các bể lắng, thiết bị lọc… lâu ngày không được làm vệ sinh, xả thải, xả cặn.
 Tiến sĩ Tôn Nữ Tuấn Nam, phụ trách nhóm điều tra khảo sát cho biết: Một kết quả rất bất ngờ khi thực hiện khảo sát tại 15 công trình cấp nước tập trung  do Trung tâm Nước sinh hoạt và vệ sinh môi trường nông thôn (TTNSH&VSMTNT) tỉnh Đắc Lắc quản lý, có tới 14 công trình xếp loại tốt, chỉ 1 công trình xếp loại trung bình. Điều này cho thấy, “căn bệnh” của các CTCNTT bị bỏ hoang hoặc hoạt động yếu kém không phải là không có “thuốc chữa”.
Ông Phạm Phú Bổn, Giám đốc TTNSH&VSMTNT tỉnh Đắc Lắc tâm sự: Không phải trung tâm có bí quyết gì ghê gớm trong công tác quản lý, vận hành các CTCNTT, mà đó chỉ là kết quả của việc thực hiện một cách bài bản. Trung tâm cũng lấy người tại địa phương để quản lý, vận hành công trình. Sau khi ký hợp đồng làm việc, những người này được đào tạo về chuyên môn, sau đó cứ 2 năm sẽ được thi nâng ngạch một lần, theo tiêu chuẩn của công nhân kỹ thuật. Các quyền lợi khác như bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế... được bảo đảm. Nhờ đó họ yên tâm làm việc và làm việc với trách nhiệm cao nhất. Bên cạnh đó, các phòng kỹ thuật, dịch vụ, tuyên truyền... luôn thực hiện rất tốt nhiệm vụ chuyên môn. Tất cả những hư hỏng, sự cố được khắc phục kịp thời. Thời gian tới, Trung tâm sẽ tổ chức bộ phận chuyên trách xét nghiệm để bảo đảm về chất lượng nước cho các công trình. Quyền lợi người dùng nước được bảo đảm khiến họ tin tưởng về chất lượng nước và muốn sử dụng lâu dài.
Trên cơ sở kết quả điều tra khảo sát, các nhà khoa học đề xuất giải pháp khắc phục như sau: Thứ nhất, cần  xác định các đơn vị có đủ năng lực quản lý, vận hành (ở đây là TTNSH&VSMTNT tỉnh Đắc Lắc) để chuyển giao CTCNTT cho đơn vị này quản lý khai thác. Thứ hai, có một lộ trình phù hợp (ít nhất là 2 năm) để khắc phục những công trình hư hỏng và đưa các công trình vốn bị bỏ hoang vào hoạt động trở lại. Thứ ba, hạn chế tới mức thấp nhất việc đầu tư mới và tập trung kinh phí cho việc sửa chữa các công trình cũ bị hư hỏng.
Bài và ảnh: Việt Dũng-Bình Định

Nhiều công trình cấp nước tập trung không hiệu quả


(Hà Tĩnh 24h ) - Chiều 8-10, Ban KT-NS, HĐND tỉnh đã tổ chức buổi làm việc và thực tế khảo sát các công trình cấp nước tập trung trên địa bàn huyện Thạch Hà.

Công trình cấp nước tập trung tại xã Nam Hương bị hư hỏng, không phát huy tác dụng.
Trên địa bàn huyện Thạch Hà có 7 xã có công trình cấp nước tập trung. Đến nay, chỉ có 2 địa phương có công trình cấp nước tập trung vẫn phát huy hiệu quả là: thị trấn Thạch Hà cung cấp nước sinh hoạt cho 800 hộ dân và xã Bắc Sơn phục vụ nước sinh hoạt cho 310 hộ dân. Còn lại các công trình khác đã xuống cấp, hư hỏng và không phát huy tác dụng. Nguyên nhân chính là do việc đầu tư không đồng bộ, công tác quản lý kém hiệu quả nên hệ thống bể chứa, đường ống bị hư hỏng không có kinh phí sửa chữa. Đặc biệt, có công trình do trong qúa trình đầu tư xây dựng không khảo sát thiết kế tốt nên không có nguồn cấp nước như công trình cấp nước tập trung tại xã Thạch Long.
Nhiều công trình cấp nước tập trung không phát huy hiệu quả
Công trình cấp nước tập trung của xã Bắc Sơn là một trong số ít công trình vẫn đang phát huy hiệu quả trên địa bàn toàn tỉnh
Đoàn giám sát cũng đã đi kiểm tra thực tế công trình cấp nước tập trung tại xã Bắc Sơn và xã Nam Hương. Công trình của xã Bắc Sơn được đầu tư xây dựng năm 2006, công suất thiết kế 100m3/ngày/đêm. Hiện tại, công trình vẫn sử dụng tốt. UBND xã Bắc Sơn đã cho nhân dân đấu nối trực tiếp vào đường ống, lắp đồng hồ nước tại các hộ gia đình. Đây được xem là một trong những mô hình tốt, phát huy hiệu quả nhất trên địa bàn toàn tỉnh. Riêng công trình ở xã Nam Hương được xây dựng năm 2004 đã bị hư hỏng nặng, không còn tính năng sử dụng.
Thăng long
( Theo: Báo Hà Tĩnh )

Công nghệ xử lý bùn


Công nghệ xử lý nước thải không chỉ quan tâm đến những tiêu chi về chi phí đầu tư, chi phí vận hành và chất lượng nước thải sau xử lý mà còn quan tâm đến việc quản lý bùn thải. Công nghệ phải đảm bảo thể tích bùn thải thấp nhằm giảm thiểu chi phí quản lý bùn thải và góp phần giảm khối lượng chất thải rắn ra môi trường. 
Để giảm thể tích bùn thải, ngoài việc tối ưu công nghệ xuyên suốt quy trình xử lý để thể tích bùn thải sinh ra thấp nhất, mà còn có quy trình giảm thể tích bùn sinh ra phải làm việc một cách hiệu quả.
  
Các phương pháp truyền thống đang áp dụng như sau
 
Phương pháp nén bùn
Quá trình nén bùn làm đặc bùn có thể thực hiện bằng lắng trọng lực, thiết bị có tên là thiết bị nén đặc bùn (thickener). Phương pháp này ứng dụng tối ưu quá trình lý học nghĩa là nén ly tâm và nén trọng lực một cách hiệu quả.
 
Phương pháp sinh học
Quá trình ổn định bùn nhằm phân hủy sinh học kỵ khí và hiếu khí các chất hữu cơ thành CO2, CH4 và H2O, giảm vấn đề mùi hoặc loại trừ sự thối rửa của bùn. Quá trình này cũng có tác dụng giảm số lượng vi khuẩn gây bệnh và giảm thể tích bùn cặn.
 
Phương pháp tách nước
Việc lựa chọn thiết bị tách nước ứng với từng loại bùn thải, khối lượng bùn thải và nồng độ chất keo tụ phụ thuộc nhiều vào kinh nghiệm thực tiễn.Quá trình tách nước nhằm giảm độ ẩm của bùn và thường sự dụng phương pháp lọc chân không, sân phơi cát, máy ép băng tải, máy ép ly tâm.

Thứ Hai, 15 tháng 10, 2012

Xử lý nước nhiễm phèn


Trong nước thiên nhiên, kể cả nước mặt và nước ngầm đều có chứa sắt. Hàm lượng sắt và dạng tồn tại của chúng tùy thuộc vào từng loại nguồn nước, điều kiện môi trường.
Trong nước mặt, sắt tồn tại ở dạng hợp chất Fe3+, dạng keo hay huyền phù. Hàm lượng này thường không lớn và sẽ được khử trong quá trình làm trong nước.
Trong nước ngầm, sắt thường tồn tại ở dạng ion sắt hóa trị 2 trong thành phần của các muối hòa tan như bicacbonat, sunfat, clorua..Hàm lượng sắt này thường cao và phân bố không đồng đều trong các lớp trầm tích dưới sâu.
Khi trong nước có hàm lượng sắt cao, nước có mùi tanh và có nhiều cặn bẩn màu vàng, làm giảm chất lượng nước ăn uống sinh hoạt và sản xuất. Vì vậy, khi trong nước có hàm lượng sắt lớn hơn giới hạn cho phép thì phải tiến hành khử sắt.
CÁC GIẢI PHÁP
1.    Khử sắt bằng phương pháp làm thoáng
Thực chất của phương pháp khử sắt bằng làm thoáng là làm giàu oxy cho nước, tạo điều kiện để Fe2+ oxy hóa thành Fe3+ thực hiện quá trình thủy phân để tạo thành hợp chất ít tan Fe(OH)3 rồi dùng bể lọc để giữ lại.
2.    Khử sắt bằng phương pháp hóa chất
2.1.  Khử sắt bằng các chất oxy hóa mạnh
Các chất oxy hóa mạnh thường sử dụng để khử sắt là: Cl2, KMnO4, O3…Phản ứng diễn ra như sau
2Fe2+ + Cl2 + 6H2 2Fe(OH)  + 2Cl- + 6H+
3Fe2+ + KMnO4 + 7H2 3Fe(OH)  + MnO2 + K+ + 5H+
Trong phản ứng, để oxy hóa 1 mg Fe2+ cần 0.64mg Cl2 hoặc 0.94mg KMnO4 và đồng thời độ kiềm của nước giảm đi 0.018meq/l
 
2.2.Khử sắt bằng vôi
Phương pháp khử sắt bằng vôi thường không đứng đôc lập, mà kết hợp với các quá trình làm ổn định nước hoặc làm mềm nước. Phản ứng xảy ra theo 2 trường hợp
♦ Có oxy hòa tan
4Fe(HCO3)2 + O2 + 2H2O + 4Ca(OH)2  4Fe(OH)3  + 4Ca(HCO3)2
Sắt (III)hydroxyt được tạo thành, dễ dàng lắng lại trong bể lắng và giữ lại hoàn toàn trong bể lọc.
♦ Không có oxy hòa tan
Fe(HCO3)2 + Ca(OH)2  Fe CO3 + CaCO3 + 2H2O
Sắt được khử đi dưới dạng FeCO3 chứ không phải hydroxyt sắt
3.    Các phương pháp khử sắt khác:
3.1.Khử sắt bằng trao đổi Cation
Cho nước đi qua lớp vật liệu lọc có khả năng trao đổi ion. Các ion H+ và Na+ có trong thành phần của lớp vật liệu lọc, sẽ trao đổi với các ion Fe2+ có trong nước. Kết quả Fe2+ được giữ lại trong lớp vật liệu lọc. Lớp vật liệu lọc có khả năng trao đổi ion là Cation thường được sử dụng cho nguồn nước có chứa Fe2+ ở dạng hòa tan
3.2.Khử sắt bằng điện phân
3.2.Khử sắt bằng phương pháp vi sinh vật.

Xử lý nước cứng

Bơm định lượng OBL - Ý

Độ cứng của nước là số đo hàm lượng các ion kim loại Ca2+ và Mg2+ có trong nước.
Độ cứng của nước được gọi là tạm thời khi có mặt của muối cacbonat và bicacbonat Ca, Mg. Loại nước này khi đun sôi sẽ tạo ra muối kết tủa CaCO3 và MgCO3.
Độ cứng vĩnh cữu của nước do các loại muối sunfat hoặc clorua Ca, Mg tạo ra. Loại muối này thường khó xử lý.
Trong sinh hoạt, độ cứng cao gây lãng phí xà phòng và các chất tẩy rửa, tạo cặn lắng bám trên bề mặt các trang thiết bị sinh hoạt.
Trong công nghiệp độ cứng của nước gây cản trở cho quá trình vận chuyển và làm giảm năng lực truyền nhiệt, giảm tuổi thọ của thiết bị.
CÁC GIẢI PHÁP
Có nhiều phương pháp làm mềm nước, vì thế phải căn cứ vào mức độ làm mềm cần thiết (độ cứng cho phép còn lại của nước), chất lượng nước nguồn và các chỉ tiêu kinh tế khác để chọn ra phương pháp làm mềm thích hợp nhất.
Để làm mềm nước, người ta dùng các phương pháp sau:
-      Làm mềm nước bằng hóa chất: pha các hóa chất khác nhau vào nước để kết hợp với ion Ca2+ và Mg2+ tạo thành các hợp chất không tan trong nước
-      Phương pháp nhiệt: đun nóng hoặc chưng cất nước.
-      Phương pháp trao đổi ion: lọc nước cần làm mềm qua lớp lọc cationit có khả năng trao đổi Na+ hoặc H+ có trong thành phần của hạt cationit với ion Ca2+ và Mg2+ hòa tan trong nước và giữ chúng lại trên bề mặt của các hạt lớp vật liệu lọc.
-      Phương pháp tổng hợp: là phương pháp phối hợp 2 trong 3 phương pháp trên.
-      Lọc qua màng bán thấm, thẩm thấu ngược (RO)
1.    Phương pháp nhiệt
Cơ sở lý thuyết của phương pháp này là dùng nhiệt để bốc hơi khí cacbonic hòa tan trong nước. Trạng thái cân bằng của các hợp chất cacbonic sẽ chuyển dịch theo phương trình phản ứng sau:
               2HCO3-  CO32- + H2O + CO2 ­
               Ca2+ + CO32-  CaCO3  
Nên        Ca(HCO3)2  CaCO3   + CO2 ­ + H2O
Tuy nhiên, khi đun nóng nước chỉ khử được hết khí CO2 và giảm độ cứng cacbonat của nước, còn lượng CaCO3hòa tan vẫn còn tồn tại trong nước.
Riêng đối với Mg, quá trình khử xảy ra qua hai bước. Ở nhiệt độ thấp (đến 180C) ta có phản ứng:
               Mg(HCO3)2  MgCO3 + CO2­ + H2O
Khi tiếp tục tăng nhiệt độ, MgCO3 bị thủy phân theo phản ứng:
               MgCO3 + H2 Mg(OH)2  + CO2­
2.    Phương pháp hóa chất
Trong thực tế áp dụng hàng loạt phương pháp xử lý nước bằng hóa chất với mục đích kệt hợp các ion Ca2+ và  Mg2+ hòa tan trong nước thành các hợp chất không tan dễ lắng và lọc. Các hóa chất thường dùng để làm mềm nước là vôi, sođa Na2CO3, xút NaOH, hyđrôxit bari Ba(OH)2, photphat natri Na3PO4.
Chọn phương án làm mềm nước bằng hóa chất cần phải dựa vào chất lượng nước nguồn và mức độ làm mềm cần thiết. Trong một vài trường hợp có thể kết hợp làm mềm nước với khử sắt, khử silic, khử photphat…
Ngoài ra trong mỗi trường hợp cụ thể phải dựa trên cơ sở so sánh kinh tế kỹ thuật giữa các phương pháp, đặc biệt là với phương pháp làm mềm bằng cationit.
2.1.     Khử độ cứng cacbonat của nước bằng vôi
Khử độ cứng cacbonat của nước bằng vôi có thể áp dụng trong trường hợp ngoài yêu cầu giảm độ cứng cần phải giảm cả độ kiềm của nước.
2.2.     Làm mềm nước bằng vôi và sođa (Na2CO3)
Làm mềm nước bằng vôi và sođa là phương pháp có hiệu quả đối với thành phần ion bất kỳ của nước. Khi cho vôi vào nước khử được độ cứng canxi và magiê ở mức tương đương với hàm lượng của ion hyđrôcacbonat trong nước.
2.3.     Làm mềm nước làm phốt phát và bari:
Khi làm mềm nước bằng vôi và sođa do độ cứng của nước sau khi làm mềm còn tương đối lớn, người ta bổ sung phương pháp làm mềm triệt để bằng photphat. Hóa chất thường dùng là trinatri photphat hay dinatri photphat. Khi cho các hóa chất này vào nước chúng sẽ phản ứng với ion canxi và magiê tạo ra muối photphat của canxi và magiê không tan trong nước.
Để khử độ cứng sunfat có thể dùng cacbonat bari BaCO3, hyđrôxit bari Ba(OH)2 hay aluminat bari Ba(AlO2)2.
3.    Phương pháp trao đổi ion
Làm mềm nước bằng cationit dựa trên tính chất của một số chất không tan hoặc hầu như không tan trong nước – cationit, nhưng có khả năng trao đổi, khi ngâm trong nước, các chất này hấp thụ cation của muối hòa tan lên bề mặt hạt và nhả vào nước một số lượng tương đương cation đã được cấy lên bề mặt hạt từ trước.

Xử lý nước nhiệm mặn, muối


Khử mặn là giảm hàm lượng muối trong nước đến trị số thỏa mãn yêu cầu đối với nước dùng cho ăn uống.
Khử muối là giảm lượng muối hòa tan trong nước đến nồng độ bằng một vài mg hay một vài phần mười mg trong một lít gọi là khử muối.
Các phương pháp khử mặn: Chưng cất, đóng băng, điện phân, lọc nước qua màng bán thấm, chiết ly, trao đổi ion.
Các phương pháp khử muối: Chưng cất trong các thiết bị bốc hơi, trao đổi ion, điện phân trong chậu điện giải nhiều ngăn, lọc qua màng bán thấm.
Khi chọn phương pháp khử mặn và khử muối cần phải tính đến: hàm lượng muối của nước nguồn, công suất yêu cầu của trạm khử muối hay khử mặn.
CÁC GIẢI PHÁP
  1.  Phương pháp trao đổi ion
Khử muối của nước bằng phương pháp trao đổi ion tức là lọc nước qua bể lọc H-cationit và OH-anionit. Khi lọc nước qua bể lọc H-Cationit, do kết quả trao đổi các cation của muối hòa tan trong nước với các ion H+ của hạt cationit, các muối hòa tan trong nước biến thành các axit tương ứng:
RH + NaCl  RNa + HCl
2RH + Na2SO4  2RNa + H2SO4
2RH + Ca(HCO3)2  R2Ca + 2CO2↑­ + 2H2O
Và khi lọc tiếp, nước đã được khử cation ở Bể H-Cationit, qua bể lọc OH-anionit, các hạt anionit sẽ hấp thụ từ nước các anion của các axit mạnh như Cl-, SO42- (Khí cacbonic được khử ra khỏi nước bằng làm thoáng trước khi cho vào bể OH-anionit) và nhả vào nước một số lượng tương đương anion OH-
[An]OH + HCl  [An]Cl + 2H2O
2[An]OH + H2SO4  [An] 2SO4 + 2H2O
2.    Phương pháp thẩm thấu ngược
Thực chất của phương pháp này là: lọc nước qua màng bán thấm đặc biệt bằng axetyl xenlulo. Màng chỉ cho nước đi qua còn các ion của muối hòa tan trong nước được giữ lại. Để lọc được nước qua màng này phải tạo ra một áp lực dư ngược với hướng di chuyển nước bằng thẩm thấu, nghĩa là tạo ra áp lực dư trong nước nguồn cao hơn áp lực thẩm thấu của nước qua màng, để nước đã được lọc qua màng không trở lại dung dịch muối do quá trình thẩm thấu.

Các chỉ tiêu cần xét nghiệm khi xử lý nước giếng khoan

Độ cứng tổng cộng (Total Hardness)          
(mg/l CaCO3)

300
TCVN 6184 - 96
Lượng oxy tiêu thụ (Consumed Oxygene)         
(mg/l O2)

2
Chuẩn độ KMnO4
Amoniac (NH3)                                                        
(mg/l)

3
TCVN 6184 - 96
Nitrit (NO2-)                                                             
(mg/l)

3
TCVN 6184 - 96
Nitrat (NO3-)                                                             
(mg/l)

50
TCVN 6184 - 96
Clorua (Cl-)                                                              
(mg/l)

250
TCVN 6184 - 96
Sunfat (SO42-)                                                          
(mg/l)

250
TCVN 6184 - 96
Mangan (Mn)                                                           
(mg/l)

0.3
TCVN 6184 - 96
Sắt tổng cộng (Fe)                                                   
(mg/l)

0.3
TCVN 6184 - 96


Đối với giếng khoan thường chúng ta hay quan tâm tới chỉ tiêu sắt: Fe (Hay thường gọi là phèn) vì chỉ tiêu này chúng ta dễ nhìn thấy do nước tạo ra các cặn màu vàng.

Ngoài ra một số các chỉ tiêu khác ta có thể nhận biết qua cảm quan như: Độ mặn, mùi và Mangan (Mn). Đối với nước có chỉ tiêu Mangan cao, khi nấu nước pha trà thì nước trà sẽ chuyển sang màu đen như mực.

Còn lại là các chỉ tiêu chúng ta không nhận biết được bằng các cảm quan thông thường, mà thông qua xét nghiệm mới nhận biết được.

Nước có PH thấp khi sử dụng có tác hại làm hư răng, răng dễ bị giòn và dễ vỡ. Ngoài ra làm hư hại quần áo…

Trong nước có các chỉ tiêu: Amoniac (NH3), Nitrit (NO2-), Nitrat (NO3-) thể hiện là nước nhiễm bẩn hữu cơ. Tùy vào nồng độ các chất mà ta biết được nước mới nhiễm bẩn hay đã nhiễm bẩn lâu ngày. Các chất trên là chất độc hại cho cơ thể. Việc xuất hiện các chất này trong giếng là do ta chống tầng cách ly không tốt trong quá trình khoan, nước bẩn từ lớp bề mặt, gần bể tự hoại, mương thoát nước… thấm xuống.

Độ cứng tổng cộng CaCO3 tạo ra các cáu cặn trong các dụng cụ sử dụng nước: Như nồi nấu nước, máy nước nóng tắm nóng lạnh, làm hỏng máy năng lượng mặt trời.       
                                                                                                                                                                   
Với kết quả xét nghiệm mẫu nước các chỉ tiêu ở trên, ta so sánh kết quả với chỉ tiêu ở cột “Qui chuẩn giới hạn”, các giá trị xét nghiệm có kết quả nhỏ hơn thì đạt chất lượng và khi đó không cần thiết phải xử lý.

Chất lượng nước giếng khoan phụ thuộc vào tính chất địa tầng khai thác của giếng. Như vậy, mỗi một giếng khoan ở vị trí khác nhau và địa tầng (độ sâu khoan giếng) khác nhau sẽ cho ta kết quả chất lượng nước khác nhau. 

Với các chất lượng nước nguồn khác nhau, ta có phương pháp xử ly khác nhau.

Hiện nay trên thị trường bán các thiết bị xử lý nước sử dụng nhiều vật liệu và hóa chất nhân tạo, thời gian sử dụng các vật liệu và hóa chất đó ngắn, phải thay thế hay phục hồi bằng hóa chất. Gây ra bất tiện và tăng thêm chi phí sử dụng.


Xử lý nước nhiễm Nitrat, Nitrit, Amoniac


Các hợp chất của nitơ có trong nước là kết quả của quá trình phân hủy các hợp chất hữu cơ có trong tự nhiên, trong các chất thải và trong các nguồn phân bón mà con người trực tiếp hoặc gián tiếp đưa vào nguồn nước. Các hợp chất này thường tồn tại dưới dạng Nitrat, Nitrit, Amoniac và cả dạng nguyên tố Nitơ (N2).
Tùy theo mức độ có mặt của các hợp chất nitơ mà ta có thể biết được mức độ ô nhiễm nguồn nước. Khi nước mới bị nhiễm bẩn bởi phân bón hoặc nước thải, trong nguồn nước có NH3, NO2- và NO3-. Sau một thời gian NH3 và NO2-bị oxy hóa thành NO3-. Như vậy:
Nếu nước chứa NH3 và nitơ hữu cơ thì coi như nước mới bị nhiễm bẩn và nguy hiểm.
Nếu nước chủ yếu có NO2- thì nước đã bị ô nhiễm thời gian dài hơn, ít nguy hiểm hơn.
Nếu nước chủ yếu là NO3- thì quá trình oxy hóa đã kết thúc.
Ở điều kiện yếm khí, NO3- sẽ bị khử thành N2 bay lên. Amoniac là chất gây nhiễm độc trầm trọng cho nước, gây độc cho loài cá.
Việc sử dụng rộng rãi các nguồn phân bón hóa học cũng làm cho hàm lượng amoniac trong nước tự nhiên tăng lên. Trong nước ngầm và nước đầm lầy hay gặp Nitrat(NO3-) và amoniac với hàm lượng cao.
CÁC GIẢI PHÁP
1.   Phương pháp khử ion Amoni
1.1. Phương pháp Clo hóa nước đến điểm đột biến
Khi cho CLo vào nước, trong nước tạo ra axit hypoclorit
                     Cl2 + H2 HCl + HOCl
Axit hypoclorit kết hợp với NH4+ tạo thành Cloramin. Khi nhiệt độ nước ≥200C, pH ≥7 phản ứng diễn ra như sau:
                     OH- + NH4+→ NH4OH  NH3 + H2O
                     NH+ HOCl → NH2Cl + H2O monocloramin
                     NH2Cl + HOCl → NHCl2 + H2O dicloramin
                     NHCl2 + HOCl → NCl3 + H2O tricloramin
Quá trình kết thúc sau 3 phút khuậy trộn nhẹ. Tại điểm oxy hóa hết Cloramin và trong nước xuất hiện Clo tự do gọi là điểm đột biến. Sau khi khử hết NH4+ trong nước cò lại lượng clo dư lớn, phải khử clo dư trước khi cấp cho người tiêu thụ.
♦      Khử Clo dư trong nước sau khi lọc bằng Natrisunfit (Na2SO3)
                    Na2SO3 + Cl2 + H2O → 2HCl + Na2SO4
♦      Khử Clo dư trong nước sau khi lọc bằng Trionatrisunfit (Na2S2O3)
                    4Cl2 + Na2S2O3 + 5H2O → 2NaCl+ 6HCl + 2H2SO4
Quá trình diễn ra hoàn chỉnh sau 15 phút khuấy trộn đều hóa chất và nước
1.2. Phương pháp làm thoáng
Muốn khử NH4+ ra khỏi nước bằng phương pháp làm thoáng, phải đưa pH của nước nguồn lên 10.5 – 11.0 để biến 99% NH4+ thành khí NH3 hòa tan trong nước.
♦      Nâng pH của nước thô: Để nâng pH của nước thô lên 10.5 – 11.0 thường dùng vôi hoặc xút. Sau bể lọc pha axit vào nước để đưa pH từ 10.5 – 11.0 xuống còn 7.5
♦      Tháp làm thoáng khử khí amoniac NH3 thường được thiết kế để khử khí amoniac có hàm lượng đầu vào 20 – 40 mg/l, đầu ra khỏi giàn hàm lượng còn lại 1 – 2mg/l, như vậy hiệu quả khử khí của tháp phải đạt 90 – 95%. Hiệu quả khử khí NH3 của tháp làm thoáng khi pH ≥11 phụ thuộc nhiều nhiệt độ của nước. Khi nhiệt độ nước tăng, tốc độ và số lượng ion NH4 chuyển hóa thành NH3 tăng nhanh.
1.3. Phương pháp trao đổi ion
Để khử NH4ra khỏi nước có thể áp dụng phương pháp lọc qua bể lọc cationit. Qua bể lọc cationit, lớp lọc sẽ giữ lại ion NH4+ hòa tan trong nước trên bề mặt hạt và cho vào nước ion Na+. Để khử NH4+ phải giữ pH của nước nguồn lớn hơn 4 và nhỏ hơn 8. Vì khi pH ≤ 4, hạt lọc cationit sẽ giữ lại cả ion H+ làm giảm hiệu quả khử NH4+ . Khi pH > 8 một phần ion NH4+ chuyển thành NH3 dạng khí hòa tan không có tác dụng với hạt cationit.
1.4. Phương pháp sinh học
Lóc nước đã được khử hết sắt và cặn bẩn qua bể lọc chậm hoặc bể lọc nhanh, thổi khí lien tục từ dưới lên. Do quá trình hoạt động vi khuẩn Nitrosomonas oxi hóa NH4+ thành NO2- và vi khuẩn Nitrobacter oxy hóa NO2-thành NO3- . Quá trình diễn ra theo phương trình:
NH4+ + 2O2 → NO3- + 2H+ + H2O
1.02NH4++ 1.89O2 + 2.02HCO3- → 0.21C5H7O2N + 1.0NO3- + 1.92 H2CO3 + 1.06H2O
2.   Khử Nitrate NO3-
Để khử nitrat dùng lọc thẩm thấu ngược RO, điện phân, trao đổi ion trong các bể lọc ionit.
Điều kiện áp dụng phương pháp trao đổi ion
♦      Nước có hàm lượng cặn < 1mg/l.
Tổng hàm lượng ion NO3- và SO42- và Cl- có sẵn trong nước phải nhỏ hơn 250 mg/l là hàm lượng ion Cl- lớn nhất cho phép có trong nước ăn uống. Vì khi lọc qua bể lọc anionit các ion SO42-, NO3- được giữ lại, thay bằng ion Cl- khi hoàn nguyên bể lọc anionit bằng dung dịch muối ăn.